truyện cổ tích ba điều ước

Truyện cổ tích Thứ Sáu, 12 tháng 7, 2013. Ngọc Hoàng thương tình ra lệnh cho họ được nghỉ ba ngày trong một năm. Ba ngày đó là ba ngày Tết nguyên đán. kể nỗi lòng với đức Phật. Thấy điều ước muốn của người con gái chỉ là làm sao cho bớt xấu xí, ông cụ bảo Tải miễn phí: Truyện Cổ Tích Việt Nam 3 Điều ước.doc .pdf .xls .ppt .txt và hàng tỷ file văn bản, tài liệu, học liệu, sách, giáo trình, thơ, truyện trên toàn thế giới ! - Liên cũng có những mơ ước, khát vọng về một cuộc sống tươi mới, hạnh phúc: + Cô khắc khoải, mong chờ tàu đến dù "buồn ngủ ríu cả mắt". + Đoàn tàu mang thứ ánh sáng rực rỡ "khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của bác Siêu", nó "lấp lánh, với các cửa kính sáng". tích. Truyện cổ tích là một loại hình nghệ thuật ngôn từ chứa đầy chất thơ, chất trí tuệ, sự lãng mạn bay bổng nhưng vẫn mang một vẻ đẹp bình dị rất đời thường. Mỗi câu chuyện là kết tinh của lòng nhân ái và bản lĩnh kiên cường, của hiện thực và ước mơ, của niềm vui và nỗi buồn, của hạnh phúc và khổ đau. Vậy là thế náo để khơi gợi hứng thú khi học tiếng. Học tiếng Nhật qua truyện cổ tích là cách học mang đến rất nhiều điều thú vị cho mỗi sinh viên đang học tiếng Nhật. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu truyện cổ tích "Ba chú heo con" kể về câu chuyện bằng sự Rencontre Du 3eme Type 5 Notes. Người giàu người nghèo và ba điều ước của Chúa là một câu chuyện cổ tích nhiều ý nghĩa trong kho tàng truyện cổ tích thế giới. Câu chuyện là bài học về tấm lòng hiếu khách, sự chân thật và những suy tư về điều gì là thật sự quan trọng trong cuộc đời khi đối diện với ba điều ước. Mời các bạn và các em cùng đọc truyện nhé. NGƯỜI GIÀU NGƯỜI NGHÈO Ngày xửa ngày xưa, khi Chúa còn sống chung với con người ở dưới trần gian. Một hôm, Người chưa về tới nhà thì trời đã sập tối. Trong lúc mệt mỏi, Người đứng trước hai căn nhà đối diện nhau, một căn thì to và đẹp, còn căn kia nhỏ bé, xấu xí. Căn nhà to đẹp là của người giàu, còn căn nhỏ bé kia là của người nghèo. Người nghĩ "Ta phải năn nỉ người giàu để ngủ qua đêm vậy!." Khi nghe tiếng gõ cửa, người giàu mở cửa sổ ra ngó và hỏi người lạ cần gì. Chúa đáp - Cho tôi xin ngủ qua đêm. Người giàu liếc nhìn người lữ hành từ đầu tới chân. Vì Chúa ăn mặc giản dị và không có nhiều tiền rủng rẻng trong túi, người giàu lắc đầu nói - Nhà tôi chất đầy lương thực, nên không còn chỗ cho người ngủ nhờ. Nếu ai gõ cửa xin ngủ nhờ cũng cho thì tôi cũng chỉ còn cách chống gậy đi ăn xin. Đi tìm chỗ khác mà ngủ nhờ! Người giàu đóng cửa sổ để mặc cho người lạ đứng ngoài. Chúa đành quay sang nhà đối diện. Vừa mới gõ cửa thì người nghèo đã kéo then mở cửa và mời người lữ hành vào nhà. Anh ta nói - Tối nay ở lại nhà tôi nhé. Trời tối đen như mực thế này thì làm sao đi tiếp được nữa. Chúa cảm thấy nhẹ nhõm, hài lòng và bước vào nhà. Vợ chủ nhà đon đả ra chào khách và nói, ông cứ tự nhiên coi như ở nhà mình, vợ chồng tuy nghèo, nhưng sẵn lòng mời khách những gì có trong nhà. Rồi chủ nhà đặt nồi nấu khoai tây, vợ đi vắt sữa dê để cả chủ lẫn khách có sữa uống. Thức ăn dọn lên bàn, khách ngồi chung với chủ nhà ăn tối, tuy bữa ăn đạm bạc nhưng khách ăn rất ngon miệng, vì chủ nhà rất niềm nở với khách. Ăn xong, trước khi đi ngủ, vợ nói với chồng - Tối nay mình giành giường cho khách. Ta trải rơm nằm tạm đêm nay. Khách đi cả ngày nên chắc đã thấm mệt. Chồng bảo - Anh thấy cũng nên hiếu khách như vậy. Rồi chồng lại nói với khách, rằng khách tối nay có thể ngủ ở giường cho giãn xương giãn cốt. Khách nói không muốn như vậy mà chỉ muốn nằm ở ổ rơm. Hai vợ chồng chủ nhà không đồng ý. Cuối cùng khách đành nằm giường theo ý của chủ nhà, còn vợ chồng chủ nhà thì trải rơm ngủ. Hôm sau, chủ nhà dậy sớm nấu cho khách một bữa ăn sáng ngon miệng. Khách dậy lúc ánh sáng mặt trời chiếu qua cửa sổ. Cả chủ lẫn khách cùng ngồi ăn sáng. Ăn xong, khách định lên đường. Ra tới cửa thì khách quay lại nói - Ông bà thật tốt bụng, ông bà có được ba điều ước, tôi sẽ giúp ông bà thực hiện ba điều ước. Chủ nhà nói - Tôi chỉ mong suốt đời được thanh thản, có nghĩa là hàng ngày đủ ăn, mạnh khỏe. Tôi cũng chẳng biết dùng điều ước thứ ba vào việc gì. Khách nói - Ông muốn có một căn nhà mới không để thay cho túp lều này. Chủ nhà đáp - Ối dào, lại được một căn nhà mới thì còn gì bằng! Chúa ban phước cho vợ chồng chủ nhà, khi nhìn thấy họ ở trong căn nhà mới thì Chúa lên đường. Sau khi ngủ cho đã mắt, người nhà giàu kia thức dậy nhìn ra ngoài qua cửa sổ thì thấy không còn túp lều, trước mắt ông là một căn nhà mới khang trang lợp ngói đỏ. Ông mở to mắt ngắm và gọi vợ lại nói - Bà thử nghĩ xem, đúng là chuyện lạ trên đời. Hôm qua chỉ là túp lều, qua đêm tới sáng đã là một căn nhà khang trang đẹp đẽ. Phải sang hỏi họ mới được! Vợ người nhà giàu chạy sang gặng hỏi vợ chồng nhà nghèo sao lại được như vậy. Người chồng kể - Tối qua có một khách bộ hành tới xin ngủ qua đêm, lúc chia tay sáng nay, người khách ấy cho chúng tôi ba điều ước sống thanh thản, hàng ngày đủ ăn và luôn luôn mạnh khỏe. Rồi còn cho chúng tôi căn nhà mới khang trang này thay cho túp lều cũ. Vợ người nhà giàu chạy ngay về nhà và kể cho chồng nghe đầu đuôi câu chuyện. Người chồng bảo - Đúng là tôi đáng bị trừng phạt! Giá như mà biết trước nhỉ? Người khách ấy trước đó có tới cổng nhà mình xin ngủ qua đêm, thế mà mình lại từ chối. Vợ khuyên - Nhanh chân lên nào, lên ngựa chắc còn đuổi kịp người khách lạ ấy để xin ba điều ước! Người nhà giàu vội lên ngựa và đuổi theo kịp người khách lạ. Ông ta ăn nói dịu dàng, rằng ông rất lấy làm tiếc là khi tìm được chìa khóa để mở cổng thì không thấy khách đâu nữa. Ông xin mời khách khi quay trở lại thì ngủ ở nhà mình. Người khách lạ nói - Khi nào quay trở lại, tôi sẽ ngủ ở nhà ông. Người nhà giàu hỏi liệu mình có được ba điều ước như người hàng xóm không. Người khách lạ nói chắc chắn là được, nhưng tốt nhất là đừng có ước một cái gì cả. Người nhà giàu nghĩ bụng, mình phải suy tính xem cái gì mang lại giàu có và mong nó biến thành hiện thực. Giữa lúc đó người khách lạ nói - Cứ lên ngựa về nhà, những điều ước sẽ trở thành hiện thực. Giờ đây người giàu có được ba điều ước, anh phi ngựa về nhà, trên đường về trong lúc anh mải suy nghĩ nên ước những gì nên nới lỏng dây cương. Vì thế con ngựa thỉnh thoảng nhảy chồm chồm làm cho anh ta không sao nghĩ được những gì mình muốn ước, anh lấy tay vỗ lưng ngựa và bảo "Liese, ngoan nào!." Chàng vừa nói xong thì ngựa lại nhảy chồm chồm. Bực mình, chàng buộc miệng nói - Ta mong ngươi ngã gãy cổ. Lập tức ngựa lăn ra đất và chết thẳng cẳng. Và như thế là điều ước thứ nhất đã được thực hiện. Vốn tính keo kiệt, anh lấy dao cắt yên khỏi ngựa và đeo yên ngựa vào lưng và đi bộ. Anh tự an ủi mình - Mình cũng còn hai điều ước nữa! Trời nắng chang chang lại đi trên cát nóng, lại bị yên ngựa tì nặng trên lưng nên chàng nghĩ vẩn vơ - Ước gì mình có nhiều châu báu đến mức có thể trang hoàng nhà mình theo ý muốn. Rồi chàng lại nghĩ - Giá mình là một nông dân vùng Bayer có ba điều ước, thì mình ước sao có bia uống cho đỡ khát, ước uống bao nhiêu cũng có và ước sao lại có sẵn một thùng dự trữ. Rồi bất chợt chàng nghĩ tới người vợ đang ngồi ăn một mình ở nhà trong khi chàng đang đi dưới trời nắng nóng, chẳng còn suy tính gì, chàng buột miệng nói - Ước gì cô ta cứ phải ngồi trên chiếc yên ngựa và thế là mình thoát được cảnh phải đeo chiếc yên ngựa trên lưng! Vừa nói xong thì chiếc yên ngựa biến mất và ngay lúc ấy chàng biết là điều ước thứ hai đã được thực hiện. Chàng tiếp tục đi dưới trời nắng chang chang, trong lòng chàng chỉ mong sao mau về tới nhà để ngồi nghĩ điều ước thứ ba. Tới nhà, chàng mở cửa thì thấy vợ ngồi như dính chặt vào yên ngựa, mồm thì càu nhàu ta thán. Chàng nói - Cứ yên tâm đi, cứ ngồi yên đó, anh sẽ ước chúng ta giàu nứt đố đổ vách. Vợ bực mình la mắng và bảo chồng là đồ dê đực, rồi nói - Giàu có cũng chẳng giúp ích gì khi cứ phải ngồi dính chặt trên yên ngựa như thế này. Anh đã ước để tôi ngồi thế này thì giờ phải tìm cách đỡ tôi ra khỏi cảnh ngồi này! Chẳng còn cách nào khác là phải nói điều ước thứ ba. Khi chàng vừa nói xong, thì vợ bước được ra khỏi yên ngựa. Và như thế là điều ước thứ ba đã được thực hiện. Chẳng được gì ngoài bực tức, mệt nhọc, ngựa chết. Người nghèo kia sống trong sung túc, an bình tới khi khuất núi. - Hết - Truyện liên quan Nước trường sinh Ba điều ước Viên ngọc ước của quạ Truyện cổ tích Lọ nước thần Ngày xưa có hai vợ chồng bác nông sinh được hai người con trai. Người anh thì tham lam, lười biếng còn người em thì thật thà, tốt bụng, chăm chỉ chịu thương chịu khó. Khi cha mẹ còn sống người anh chỉ biết sống dựa dẫm vào cha mẹ, khi cha mẹ qua đời anh ta lại sống dựa dẫm vào người em. Suốt ngày người anh chỉ biết rong chơi, rượu chè cờ bạc, còn nếp nhà tranh cha mẹ để lại anh ta cũng bán nốt đi để lấy tiền tiêu xài. Cuối cùng không có nơi nào để ở hai anh em phải chia tay nhau mỗi người một ngả. Người anh chẳng biết làm lụng gì nên phải đi ăn xin khắp nơi xin mọi người bố thí để sống qua ngày. Còn về phần người em, anh có chiếc cần câu cha để lại nên ngày nào anh cũng ra sông để câu cá. Chẳng quản ngại nắng mưa người em rất chăm chỉ cần mẫn làm việc, và không bao lâu sau anh dành dụm tiền mua được một chiếc vó từ đó công việc của anh đỡ vất vả hơn rất nhiều. Nhờ hay lam hay làm lại biết tiết kiệm, chắt bóp chẳng bao lâu sau anh đã chuộc lại được căn nhà tranh của cha mẹ. Vì thương anh nên người em lại tìm người anh về sống chung, nhưng người anh vẫn chứng nào tật ấy, không chịu làm ăn. Một hôm, người em đi từ sáng đến chiều mà không câu được con cá nào. Anh đành phải vạch lau, lách theo bờ để tìm đến một đoạn sông vắng, rồi kiên trì thả vó nhưng lần nào kéo vó lên cũng không có một con cá nào. Người em buồn quá định cất vó đi về thì lần cuối cùng anh cất vó thì thấy võ nặng trĩu, anh phải gắng hết sức thì mới nhấc được vó lên được. Người em vô cùng kinh ngạc khi thấy trong vó không phải là cá mà là một cô gái vô cùng xinh đẹp. Sau khi được người em vớt lên, cô gái kể lại sự việc cho người em nghe. Cô gái vốn là tiên nữ trên trời, một hôm cô xuống sông tắm chẳng may đã bị con trai vua thủy tề bắt làm vợ, nay nhờ người em kéo vó mà nàng mới thoát được lên bờ. Và để đền ơn chàng, nàng tiên đã ban tặng cho người em bảy điều ước và dặn – Nếu chàng muốn cho ai điều ước, thì chàng chỉ cần đặt tay lên đầu người đó, mỗi lần đặt tay lên đầu là một điều ước. Nói xong nàng tiên đặt tay lên đầu người em bảy lần rồi biến mất. Khi về đến nhà, người em đem hết sự tình kể cho người anh. Người anh tham lam bảo người em hãy cho mình bốn điều ước, người em bằng lòng ngay và đặt tay lên đầu người anh bốn lần. Người anh ước ngay điều ước thứ nhất – Ta ước có một tòa lâu đài nguy nga, lộng lẫy chứa đầy vàng bạc châu báu. Người anh vừa dứt lời thì lập tức tòa lâu đài nguy nga tráng lệ hiện ra trước mắt. Anh ta vô cùng vui sướng và đi khắp ngôi nhà để khám phá. Còn người em, anh chỉ ước có một ngôi nhà vững chãi để thay cho ngôi nhà đã rột nát. Ước mong thứ hai là có một mảnh ruộng tốt để cày cấy. Còn điều ước cuối cùng anh vẫn để giành. Ngày ngày, ngoài việc đồng áng, anh lại mang vó ra sông để kiếm cá. Từ ngày giàu có người anh trở nên hợm hĩnh, không coi ai ra gì. Những người nghèo khó đến xin giúp đỡ anh ta đều từ chối và đuổi đi. Anh ta còn dùng điều ước thứ hai để ước hàng xóm láng giếng biến mất hết để không ai có thể làm phiền anh ta. Dần dần anh ta càng bị mọi người ghét bỏ và xa lánh, vì thế nên quanh năm anh ta không thể nói chuyện được với ai. Sống một mình mãi anh ta sinh buồn chán. Một hôm anh ta ước đến điều ước thứ ba “Ta cảm thấy sống mãi ở trần gian này thật chán quá, ta ước được lên cung trăng để được chơi với chị Hằng, chú Cuội”. Lập tức một trận cuồng phong kéo tới đưa anh ta lên tít trời cao. Anh ta sợ hãi ngắm nghiền hai mắt lại đến khi không nghe thấy tiếng gió rít nữa mới dám mở mắt ra nhìn. Thì ra anh ta đã lên đến cung trăng, anh ta sửng sốt khi nhận ra chú Cuội bằng xương bằng thịt đang đứng ngay trước mặt. Chú Cuội đưa cho anh ta một cái rìu và bảo – Ở nơi này mọi thứ đều khó kiếm, anh muốn no bụng thì phải bổ củi mới có cơm để ăn. Người anh bắt đầu bổ củi, anh ta bổ đến khi chân tay mỏi rã rời không thể nhấc được cái rìu nữa nhưng vẫn chẳng thấy cơm cháo đâu cả. Lúc ấy Cuội mới cười bảo anh ta – Ha! Ha! Tôi bảo anh bổ cây lấy củi chứ có bảo anh bổ củi lấy cơm đâu. Rồi Cuội lại bảo người anh mài đá lấy bột ăn cho đỡ đói. Người anh tưởng thật lại cố sức mài đá cho thành bột, nhưng bột đá chát quá anh ta không tài nào nuốt nổi. Thấy vậy Cuội lại cười và bảo – Ha! Ha! Tôi nhờ anh mài hộ tảng đá để làm bàn cờ, chứ bột đá thì sao có thể ăn được. Người anh vừa đói vừa khát lại bị Cuội lừa nên anh ta lại thấy chán cung Trăng. Anh ta lại ước tiếp điều ước thứ tư “Hãy đưa ta đến xứ sở Mặt trời.” Điều ước thành sự thật, nhưng chưa đến được Mặt trời anh ta thấy nóng quá anh ta vội liều nhảy xuống mặt đất . Người anh rơi xuống ngay con sông nơi người em thường hay câu cá. Anh ta được những người thuyền chài vớt lên nhưng anh ta đã bị tắt thở rồi. Nhận được tin báo người em vội vã ra nhận xác người anh. Còn một điều ước cuối cùng anh ước cho anh trai mình được sống lại. Người anh vô cùng hối hận vì những việc mình đã làm, thay tâm đổi tính ngày ngày chịu khó làm việc. Nhờ biết bảo ban nhau làm ăn cuộc sống của hai an hem ngày càng khấm khá em còn chịu khó khăn gói quả mướp đi học hỏi, anh còn tìm được bao nhiêu giống cây tốt mang về. Chẳng bao lâu sau ruộng của hai anh em được cấy giống lúa tốt cho gạo thơm ngon, còn vườn cây thì xanh tốt toàn hoa thơm quả ngọt. Rồi hai anh em đều cưới được hai cô vợ xinh đẹp nết na. Và họ sống bên nhau thật vui vẻ hạnh phúc. Nguồn Truyện cổ tích Tổng hợp. Ngày xửa ngày xưa, có một người nhà giàu. Ông ta có một người đầy tớ chăm chỉ, tận tâm với chủ. Ngày nào cũng vậy, anh là người đầu tiên ra khỏi nhà lúc trời sáng và tới đêm khuya là người cuối cùng đi ngủ. Có việc gì nặng nhọc không ai chịu làm, anh sẵn sàng nhận mà không bao giờ ca thán. Anh luôn luôn tỏ thái độ hài lòng và vui vẻ với mọi người. Một năm đã trôi qua, nhưng chủ vẫn chưa trả cho anh công của năm đó. Chủ nghĩ - Tên này là đứa biết điều nhất, ta có thể lỡ đi được, nó cũng chẳng đi ở nơi khác, nó vẫn ở lại làm cho mình. Người đày tớ kia vẫn lặng thinh, làm việc suốt năm thứ hai cũng chăm chỉ, tận tâm như năm thứ nhất. Cuối năm thứ hai, anh cũng chẳng nhận được tiền công. Anh cũng chẳng đả động gì tới chuyện đó và vẫn ở lại làm cho chủ. Tới khi hết năm thứ ba, chủ cho tay vào túi làm như lấy tiền trả công, khi rút tay ra tay không, lúc ấy anh đầy tớ mới nói - Thưa ông chủ, tôi làm cật lực cho ông đã ba năm nay. Xin ông thương tình trả tiền công xứng đáng với sự tận tụy của tôi. Tôi muốn đi khắp đó đây để cho biết thiên hạ. Ông chủ keo kiệt nói - Anh đã gắng sức làm cho ta, vậy cũng phải nhận tiền thưởng xứng đáng chứ. Chủ cho tay vào túi và lấy ra đếm từng đồng Heller một và nói - Ta trả cho anh mỗi năm một Heller. Ba năm ba đồng là lớn lắm đấy, chẳng có chủ nào trả nhiều và hậu như thế. Người đầy tớ chẳng mấy khi tiêu tiền, nhận tiền từ tay chủ và nghĩ - Giờ thì mình cũng đầy túi tiền, chẳng còn gì phải lo nghĩ, mà cũng chẳng phải kêu ca làm nặng nhọc. Anh lội suối trèo đèo, vừa đi vừa nhảy, ca hát. Khi anh đi qua một bụi cây, bỗng có người tí hon xuất hiện và gọi anh - Đi đâu vậy, anh bạn vui tính? Tôi thấy, hình như anh chẳng có gì để lo lắng cả. Anh chàng người ở đáp - Sao tôi lại phải buồn nhỉ! Đầy túi, kêu rủng riểng toàn tiền là tiền. Tiền công ba năm đi làm đấy. - Kho báu của anh là bao nhiêu? Người tí hon hỏi. - Bao nhiêu à? Ba đồng Heller, tôi đếm đúng như vậy. Người tí hon nói - Này anh bạn, tôi già nua khốn khổ, anh cho tôi ba đồng Heller đi. Tôi chẳng làm được gì để sống, anh còn trẻ khỏe nên làm gì cũng sống được. Anh chàng người ở vốn tốt bụng, hay thương người nên sẵn lòng đưa cho người tí hon ba đồng Heller và nói - Nhờ trời, tôi cũng chẳng đến nỗi túng thiếu. Người tí hon liền nói - Anh tốt bụng thương người. Anh cho tôi ba đồng Heller, tôi tặng anh ba điều ước, ước gì được nấy. Anh người ở vui mừng reo - A ha, anh đúng là người với tay tới tận trời xanh. Nếu ước được, tôi ước có ống xì đồng thổi chim, thổi đâu trúng đó. Thứ đến tôi ước có cây vĩ cầm, mỗi khi tôi chơi đàn thì tất cả mọi thứ đều nhảy múa. Điều thứ ba là không ai từ chối tôi, mỗi khi tôi yêu cầu họ. Người tí hon nói - Những điều đó anh sẽ có! Nói xong, người tí hon sờ tay vào bụi cây. Người ta có cảm tưởng những thứ chàng trai người ở ước muốn đã được sắp đặt từ trước, giờ chúng ở ngay trước mắt chàng, người tí hon cầm đưa chàng và nói - Mỗi khi anh có điều gì yêu cầu thì chẳng có ai chối từ cả. Anh chàng người ở tự nhủ - Tuyệt vời, còn mong muốn gì nữa! Anh lại tiếp tục lên đường. Lát sau anh gặp một người Do Thái có bộ râu dê rất dài. Người này đang đứng lắng nghe tiếng chim hót, con chim đang đậu trên ngọn cây. Người này nói - Tạo hóa sinh ra sao mà tuyệt vời, con chim nhỏ xíu mà có giọng hót lanh lảnh vang xa! Không biết có ai có thể giúp mình bắn nó không nhỉ? Anh chàng người ở nói - Nếu chẳng có chuyện gì thì chim rơi ngay bây giờ cho coi. Chàng dương ống xì đồng thổi trúng, chim rơi xuống bụi cây gai. Chàng bảo người Do Thái - Này anh kia, chui vào bụi lấy chim đi. Người Do Thái nói - Để tôi lách vào xem chim bị anh bắn trúng vào đâu. Người Do Thái kia trườn mình vào giữa bụi cây. Đúng lúc đó, anh chàng người ở hứng chí lấy đàn vĩ cầm ra chơi. Lập tức người Do Thái kia bật đứng dậy và nhảy. Đàn đánh càng du dương, người Do Thái kia nhảy càng sôi động hơn. Gai kéo níu rách hết áo quần, gai làm chòm râu dê tơi tả, gai đâm tê tái khắp người. Lúc bấy giờ, người Do Thái kia kêu la - Đánh đàn gì mà kỳ vậy. Xin đừng chơi đàn nữa, tôi có thích nhảy đâu. Chàng trai người ở cứ chơi đàn tiếp tục, trong bụng nghĩ - Ngươi lừa đảo nhiều người rồi. Gai đâm để cho ngươi nhớ đời. Rồi chàng chơi càng hăng say hơn trước. Người Do Thái kia nhảy càng cao và hăng hơn trước đến nỗi quần áo rách nát từng mảnh và dính treo lơ lửng trong bụi gai. Người đó la - Ối trời ơi, đau quá. Xin tha cho tôi, tôi xin nộp túi vàng này. Chàng trai người ở nói - Nếu ngươi hào phóng như vậy thì ta ngưng chơi nhạc. Ta cũng khen ngươi nhảy khá đấy. Rồi chàng cầm túi vàng và tiếp tục lên đường. Đợi đến khi chàng trai đi đã xa khuất khỏi tầm mắt nhìn, lúc bấy giờ người Do Thái kia mới la tướng lên - Quân nhạc sĩ lang thang khốn kiếp, đồ gảy đàn ăn xin, cứ đợi đấy, ta sẽ tóm được ngươi. Ta sẽ dần cho ngươi biết tay ta, ta đánh ngươi nhừ tử. Đồ khốn nạn, ngươi sẽ biết thế nào là xu và tiền vàng. Người Do Thái kia chửi một thôi một hồi. Khi đã lấy lại sức, người Do Thái kia tới thành phố gặp quan tòa. Hắn nói - Thưa quan tòa, ngay giữa đường cái quan, ngay giữa ban ngày mà có tên khốn kiếp nó dám cướp của, đánh người. Đá cũng phải thấy xót xa! Nó đánh tôi tơi tả quần áo, khắp người toàn những vết thương, rồi lấy đi túi tiền toàn những đồng Dukaten sáng loáng, đồng nào cũng đẹp ơi là đẹp. Lạy trời, hãy tóm cổ nó cho vào ngục tối! Quan tòa hỏi - Có phải lính không? Nó đã dùng kiếm đâm anh phải không? Người Do Thái đáp - Có trời chứng giám. Hắn chẳng có dao, kiếm gì cả. Hắn đeo một ống xì đồng và một cây đàn vĩ cầm. Tên tội phạm ấy rất dễ nhận mặt. Quan tòa cho lính đi lùng bắt. Họ tìm ra ngay anh chàng người ở tốt bụng kia. Họ cũng thấy anh ta dắt trong người túi tiền. Anh chàng người ở bị đưa ra tòa xét xử. Anh thưa - Tôi không hề chạm vào thân thể người Do Thái kia. Tôi cũng chẳng cướp túi tiền của hắn. Hắn nói, nếu tôi ngưng kéo vĩ cầm, hắn sẽ cho tôi túi tiền. Người Do Thái la lớn - Có trời chứng giám! Giờ nó lại dối trá như lũ ruồi bẩn thỉu. Quan tòa không tin lời anh chàng người ở và nói - Giữa đường cái quan mà dám ăn cướp. Đem treo cổ! Điều đó không thể tha thứ được! Khi chàng người ở bị dẫn ra pháp trường, người Do Thái kia còn nói lớn - Quân hỗn như gấu! Đồ nhạc sĩ lang thang chó chết, giờ thì mày được thưởng xứng công nhe! Chàng người ở lặng lẽ theo bước người đao phủ, khi bước lên bục cuối cùng, chàng quay người lại nói với quan tòa - Xin cho tôi được nói yêu cầu trước khi chết. Quan tòa nói - Chỉ có xin tha chết là không được! Chàng người ở nói - Tôi không xin tha chết. Tôi xin được chơi đàn vĩ cầm lần cuối. Người Do Thái kia bỗng thét lên - Cầu trời, đừng cho phép nó chơi đàn, đừng cho phép nó chơi đàn! Quan tòa phán - Tại sao lại không cho nó được hưởng giây lát sung sướng. Điều đó ta cho phép! Nhưng làm sao chối từ được, đấy là một trong ba điều ước mà chàng người ở có. Người Do Thái kia lại la lớn - Hãy trói tôi lại, hãy trói chặt tôi lại! Chàng người ở tốt bụng lấy đàn vĩ cầm ra chơi. Tiếng đàn du dương vừa mới vang lên thì mọi người đều rục rịch, rồi quan tòa, thơ ký cùng các nhân viên tòa án đều đung đưa chân bắt đầu nhảy, tên đao phủ buông thòng lọng khỏi chàng người ở. Tiếng đàn càng rộn vang mọi người càng nhảy hăng say hơn trước. Quan tòa và người Do Thái kia đứng đầu hàng và nhảy hăng say nhất. Rồi tất cả những người tò mò tới xem hành hình cũng nhộn nhịp nhảy múa, già trẻ, béo gầy đều nhảy, rồi chó đứng quanh cũng chân thấp chân cao như muốn cùng nhảy với mọi người. Chàng chơi càng lâu mọi người càng nhảy tứ tung đến mức họ cụng đầu vào nhau tới mức đau điếng phải ca thán. Cuối cùng quan tòa thấy mình gần hụt hơi vì nhảy, ông nói - Ta tha chết cho ngươi. Hãy ngưng chơi đàn! Chàng người ở tốt bụng ngưng chơi đàn, đeo đàn vào người và bước khỏi bục treo cổ. Chàng bước tới chỗ tên Do Thái và hỏi - Quân lừa đảo! Nói ngay, ngươi lấy ở đâu ra tiền! Bằng không ta lại lấy đàn ra chơi. Tên Do Thái đang nằm lăn dưới đất, ráng lấy sức hít thở, nghe nói vậy, hắn khai - Tiền ấy là tiền tôi ăn cắp. Quan tòa liền cho dẫn tên Do Thái lên bục và hạ lệnh treo cổ tên ăn cắp. * * * * * Ba điều ước là truyện cười dân gian Việt Nam, có ý khuyên nhủ chúng ta cần phải suy nghĩ cẩn thận, bàn bạc thống nhất mọi việc trước khi đưa ra quyết định. “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”. – Thành ngữ Việt Nam – Hai vợ chồng nhà nọ, một hôm rỗi rãi ngồi bàn với nhau – Giá ta học được phép “cầu được ước thấy” thì thích biết mấy nhỉ? Bụt nghe vậy, liền hiện lên, bảo – Ta sẽ ban cho vợ chồng ngươi ba điều ước. Từ nay các ngươi có thể “cầu được ước thấy”. Nói xong, Bụt biến mất. Hai vợ chồng thích quá nhưng tranh cãi mãi mà chưa biết nên ước điều gì. Một hôm, trời mưa to, hai vợ chồng ngồi dưới bếp rang ngô, chị vợ buột miệng nói – Ước gì bây giờ được miếng dồi chó mà ăn thì thích biêt mấy. Tức thì, một miếng dồi chó thơm lừng xuất hiện, rơi trước mặt người vợ. Thế là mất toi một điều ước. Anh chồng thấy vậy bực quá, chỉ miếng dồi mắng vợ – Ước vàng ước bạc chẳng ước, lại ước một miếng dồi chó. Thế thì tôi cũng ước cho miếng dồi chó này dính ngay vào mũi cô cho cô biết thân! Tức thì, miếng dồi chó bay lên, dính ngay vào mũi chị vợ. Hai vợ chồng sợ xanh mặt. Thế là mất toi hai điều ước. Bây giờ, việc cấp thiết nhất là phải làm thế nào cho miếng dồi chó bay khỏi mũi người vợ. Anh chồng đành ngậm ngùi ước nốt điều cuối cùng – Ước gì miếng dồi chó bay khỏi mũi nhà tôi. Tức thì miếng dồi chó biến mất. Thế là đi tong cả ba điều ước. Câu chuyện Ba điều ước – Truyện cười dân gian Việt Nam Nguồn Truyện đọc lớp 4, trang 47, NXB Giáo dục Việt Nam – 2021 – – Thử thách trong câu chuyện Ba điều ước Được Bụt ban cho điều ước, vợ chồng nhà kia đã làm gì? Trong hoàn cảnh nào, người vợ buột miệng nói ra điều ước thứ nhất? Người chồng làm mất điều ước thứ hai như thế nào? Điều ước thứ ba mất toi như thế nào? Truyện cười này khuyên ta điều gì? Truyện cười Kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam và thế giới Truyện cười là một loại truyện kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống, trong hành vi của người đời. Trong truyện cười, những hiện tượng đáng cười luôn luôn tự phơi bày ra dưới dạng tức cười, khiến người nghe hoặc người đọc bật cười. Ngoài câu chuyện Ba điều ước kể bên trên, còn sưu tầm và chọn lọc ra những câu chuyện cười hay nhất, giúp độc giả có những phút giây thư giãn và giải trí sau những căng thẳng, mệt mỏi. Ngày xửa ngày xưa, có một người nhà giàu. Ông ta có một người đầy tớ chăm chỉ, tận tâm với chủ. Ngày nào cũng vậy, anh là người đầu tiên ra khỏi nhà lúc trời sáng và tới đêm khuya là người cuối cùng đi ngủ. Có việc gì nặng nhọc không ai chịu làm, anh sẵn sàng nhận mà không bao giờ ca thán. Anh luôn luôn tỏ thái độ hài lòng và vui vẻ với mọi năm đã trôi qua, nhưng chủ vẫn chưa trả cho anh công của năm đó. Chủ nghĩ – Tên này là đứa biết điều nhất, ta có thể lỡ đi được, nó cũng chẳng đi ở nơi khác, nó vẫn ở lại làm cho mình. Người đày tớ kia vẫn lặng thinh, làm việc suốt năm thứ hai cũng chăm chỉ, tận tâm như năm thứ nhất. Cuối năm thứ hai, anh cũng chẳng nhận được tiền công. Anh cũng chẳng đả động gì tới chuyện đó và vẫn ở lại làm cho chủ. Tới khi hết năm thứ ba, chủ cho tay vào túi làm như lấy tiền trả công, khi rút tay ra tay không, lúc ấy anh đầy tớ mới nói – Thưa ông chủ, tôi làm cật lực cho ông đã ba năm nay. Xin ông thương tình trả tiền công xứng đáng với sự tận tụy của tôi. Tôi muốn đi khắp đó đây để cho biết thiên hạ. Ông chủ keo kiệt nói – Anh đã gắng sức làm cho ta, vậy cũng phải nhận tiền thưởng xứng đáng chứ. Chủ cho tay vào túi và lấy ra đếm từng đồng Heller một và nói – Ta trả cho anh mỗi năm một Heller. Ba năm ba đồng là lớn lắm đấy, chẳng có chủ nào trả nhiều và hậu như thế. Người đầy tớ chẳng mấy khi tiêu tiền, nhận tiền từ tay chủ và nghĩ – Giờ thì mình cũng đầy túi tiền, chẳng còn gì phải lo nghĩ, mà cũng chẳng phải kêu ca làm nặng nhọc. Anh lội suối trèo đèo, vừa đi vừa nhảy, ca hát. Khi anh đi qua một bụi cây, bỗng có người tí hon xuất hiện và gọi anh – Đi đâu vậy, anh bạn vui tính? Tôi thấy, hình như anh chẳng có gì để lo lắng cả. Anh chàng người ở đáp – Sao tôi lại phải buồn nhỉ! Đầy túi, kêu rủng riểng toàn tiền là tiền. Tiền công ba năm đi làm đấy. – Kho báu của anh là bao nhiêu? Người tí hon hỏi. – Bao nhiêu à? Ba đồng Heller, tôi đếm đúng như vậy. Người tí hon nói – Này anh bạn, tôi già nua khốn khổ, anh cho tôi ba đồng Heller đi. Tôi chẳng làm được gì để sống, anh còn trẻ khỏe nên làm gì cũng sống được. Anh chàng người ở vốn tốt bụng, hay thương người nên sẵn lòng đưa cho người tí hon ba đồng Heller và nói – Nhờ trời, tôi cũng chẳng đến nỗi túng thiếu. Người tí hon liền nói – Anh tốt bụng thương người. Anh cho tôi ba đồng Heller, tôi tặng anh ba điều ước, ước gì được nấy. Anh người ở vui mừng reo – A ha, anh đúng là người với tay tới tận trời xanh. Nếu ước được, tôi ước có ống xì đồng thổi chim, thổi đâu trúng đó. Thứ đến tôi ước có cây vĩ cầm, mỗi khi tôi chơi đàn thì tất cả mọi thứ đều nhảy múa. Điều thứ ba là không ai từ chối tôi, mỗi khi tôi yêu cầu họ. Người tí hon nói – Những điều đó anh sẽ có! Nói xong, người tí hon sờ tay vào bụi cây. Người ta có cảm tưởng những thứ chàng trai người ở ước muốn đã được sắp đặt từ trước, giờ chúng ở ngay trước mắt chàng, người tí hon cầm đưa chàng và nói – Mỗi khi anh có điều gì yêu cầu thì chẳng có ai chối từ cả. Anh chàng người ở tự nhủ – Tuyệt vời, còn mong muốn gì nữa! Anh lại tiếp tục lên đường. Lát sau anh gặp một người Do Thái có bộ râu dê rất dài. Người này đang đứng lắng nghe tiếng chim hót, con chim đang đậu trên ngọn cây. Người này nói – Tạo hóa sinh ra sao mà tuyệt vời, con chim nhỏ xíu mà có giọng hót lanh lảnh vang xa! Không biết có ai có thể giúp mình bắn nó không nhỉ? Anh chàng người ở nói – Nếu chẳng có chuyện gì thì chim rơi ngay bây giờ cho coi. Chàng dương ống xì đồng thổi trúng, chim rơi xuống bụi cây gai. Chàng bảo người Do Thái – Này anh kia, chui vào bụi lấy chim đi. Người Do Thái nói – Để tôi lách vào xem chim bị anh bắn trúng vào đâu. Người Do Thái kia trườn mình vào giữa bụi cây. Đúng lúc đó, anh chàng người ở hứng chí lấy đàn vĩ cầm ra chơi. Lập tức người Do Thái kia bật đứng dậy và nhảy. Đàn đánh càng du dương, người Do Thái kia nhảy càng sôi động hơn. Gai kéo níu rách hết áo quần, gai làm chòm râu dê tơi tả, gai đâm tê tái khắp người. Lúc bấy giờ, người Do Thái kia kêu la – Đánh đàn gì mà kỳ vậy. Xin đừng chơi đàn nữa, tôi có thích nhảy đâu. Chàng trai người ở cứ chơi đàn tiếp tục, trong bụng nghĩ – Ngươi lừa đảo nhiều người rồi. Gai đâm để cho ngươi nhớ đời. Rồi chàng chơi càng hăng say hơn trước. Người Do Thái kia nhảy càng cao và hăng hơn trước đến nỗi quần áo rách nát từng mảnh và dính treo lơ lửng trong bụi gai. Người đó la – Ối trời ơi, đau quá. Xin tha cho tôi, tôi xin nộp túi vàng này. Chàng trai người ở nói – Nếu ngươi hào phóng như vậy thì ta ngưng chơi nhạc. Ta cũng khen ngươi nhảy khá đấy. Rồi chàng cầm túi vàng và tiếp tục lên đường. Đợi đến khi chàng trai đi đã xa khuất khỏi tầm mắt nhìn, lúc bấy giờ người Do Thái kia mới la tướng lên – Quân nhạc sĩ lang thang khốn kiếp, đồ gảy đàn ăn xin, cứ đợi đấy, ta sẽ tóm được ngươi. Ta sẽ dần cho ngươi biết tay ta, ta đánh ngươi nhừ tử. Đồ khốn nạn, ngươi sẽ biết thế nào là xu và tiền vàng. Người Do Thái kia chửi một thôi một hồi. Khi đã lấy lại sức, người Do Thái kia tới thành phố gặp quan tòa. Hắn nói – Thưa quan tòa, ngay giữa đường cái quan, ngay giữa ban ngày mà có tên khốn kiếp nó dám cướp của, đánh người. Đá cũng phải thấy xót xa! Nó đánh tôi tơi tả quần áo, khắp người toàn những vết thương, rồi lấy đi túi tiền toàn những đồng Dukaten sáng loáng, đồng nào cũng đẹp ơi là đẹp. Lạy trời, hãy tóm cổ nó cho vào ngục tối! Quan tòa hỏi – Có phải lính không? Nó đã dùng kiếm đâm anh phải không? Người Do Thái đáp – Có trời chứng giám. Hắn chẳng có dao, kiếm gì cả. Hắn đeo một ống xì đồng và một cây đàn vĩ cầm. Tên tội phạm ấy rất dễ nhận mặt. Quan tòa cho lính đi lùng bắt. Họ tìm ra ngay anh chàng người ở tốt bụng kia. Họ cũng thấy anh ta dắt trong người túi tiền. Anh chàng người ở bị đưa ra tòa xét xử. Anh thưa – Tôi không hề chạm vào thân thể người Do Thái kia. Tôi cũng chẳng cướp túi tiền của hắn. Hắn nói, nếu tôi ngưng kéo vĩ cầm, hắn sẽ cho tôi túi tiền. Người Do Thái la lớn – Có trời chứng giám! Giờ nó lại dối trá như lũ ruồi bẩn thỉu. Quan tòa không tin lời anh chàng người ở và nói – Giữa đường cái quan mà dám ăn cướp. Đem treo cổ! Điều đó không thể tha thứ được! Khi chàng người ở bị dẫn ra pháp trường, người Do Thái kia còn nói lớn – Quân hỗn như gấu! Đồ nhạc sĩ lang thang chó chết, giờ thì mày được thưởng xứng công nhe! Chàng người ở lặng lẽ theo bước người đao phủ, khi bước lên bục cuối cùng, chàng quay người lại nói với quan tòa – Xin cho tôi được nói yêu cầu trước khi chết. Quan tòa nói – Chỉ có xin tha chết là không được! Chàng người ở nói – Tôi không xin tha chết. Tôi xin được chơi đàn vĩ cầm lần cuối. Người Do Thái kia bỗng thét lên – Cầu trời, đừng cho phép nó chơi đàn, đừng cho phép nó chơi đàn! Quan tòa phán – Tại sao lại không cho nó được hưởng giây lát sung sướng. Điều đó ta cho phép! Nhưng làm sao chối từ được, đấy là một trong ba điều ước mà chàng người ở có. Người Do Thái kia lại la lớn – Hãy trói tôi lại, hãy trói chặt tôi lại! Chàng người ở tốt bụng lấy đàn vĩ cầm ra chơi. Tiếng đàn du dương vừa mới vang lên thì mọi người đều rục rịch, rồi quan tòa, thơ ký cùng các nhân viên tòa án đều đung đưa chân bắt đầu nhảy, tên đao phủ buông thòng lọng khỏi chàng người ở. Tiếng đàn càng rộn vang mọi người càng nhảy hăng say hơn trước. Quan tòa và người Do Thái kia đứng đầu hàng và nhảy hăng say nhất. Rồi tất cả những người tò mò tới xem hành hình cũng nhộn nhịp nhảy múa, già trẻ, béo gầy đều nhảy, rồi chó đứng quanh cũng chân thấp chân cao như muốn cùng nhảy với mọi người. Chàng chơi càng lâu mọi người càng nhảy tứ tung đến mức họ cụng đầu vào nhau tới mức đau điếng phải ca thán. Cuối cùng quan tòa thấy mình gần hụt hơi vì nhảy, ông nói – Ta tha chết cho ngươi. Hãy ngưng chơi đàn! Chàng người ở tốt bụng ngưng chơi đàn, đeo đàn vào người và bước khỏi bục treo cổ. Chàng bước tới chỗ tên Do Thái và hỏi – Quân lừa đảo! Nói ngay, ngươi lấy ở đâu ra tiền! Bằng không ta lại lấy đàn ra chơi. Tên Do Thái đang nằm lăn dưới đất, ráng lấy sức hít thở, nghe nói vậy, hắn khai – Tiền ấy là tiền tôi ăn cắp. Quan tòa liền cho dẫn tên Do Thái lên bục và hạ lệnh treo cổ tên ăn cắp. Nguồn Truyện cổ tích Tổng hợp.

truyện cổ tích ba điều ước