bài thơ trường sơn đông trường sơn tây
Với chiều dài toàn tuyến dự án đường Trường Sơn Đông khoảng 657km, đây là trục giao thông chiến lược quan trọng chạy giữa Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh xuyên suốt 7 tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, kết nối 9 quốc lộ ngang. Dự án hoàn thiện từ năm 2017 đã đánh
Ðông Trường Sơn, cô gái "ba sẵn sàng" xanh áo Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh. Từ nơi em gửi đến nơi anh Những đoàn quân trùng trùng ra trận Như tình yêu nối lời vô tận Ðông Trường Sơn nối tây Trường Sơn. Phạm Tiến Duật Nguồn: Trường Sơn - đường khát vọng, NXB
Bài thơ “Trường tô Đông – Trường tô Tây” ở trong phòng thơ Phạm Tiến Duật sáng tác thời điểm cuối năm 1969, tại làng mạc Cổ Giang, bên bờ sông Son, tỉnh giấc Quảng Bình. Ngôi làng ấy ở ko xa Đường đôi mươi xẻ ngang hàng núi trường Sơn.
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây. Một dãy núi mà hai màu mây. Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác. Như anh với em, như Nam với Bắc. Như Đông với Tây một dải rừng liền. Trường Sơn tây anh đi, thương em. Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo. Muỗi bay rừng già cho
Biểu đồ cột kép ở Hình 10 biểu diễn số lượng học sinh lớp 7A và 7B có nhà nằm ở bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc của trường học. Related Articles Giải mục II trang 50, 51 SGK Toán 7 tập 1 – Cánh diều
Rencontre Du 3eme Type 5 Notes. Chào các bạn, Mình đang tìm hiểu các cuộc chiến tranh ở Việt Nam và thế giới hiện tại là các cuộc chiến ở Trung Đông. Lịch sử, tôn giáo và chính trị là những chủ đề mình quan tâm. Mình vẫn tìm hiểu suốt 15 năm nay, lâu lâu tìm hiểu một chút, cứ vậy mà tích góp. Dĩ nhiên tìm hiểu những chuyện như vậy thì nhức đầu và nhức tim, nhưng vì mình muốn hiểu đất nước mình, hiểu thế giới xung quanh và hiểu chính mình, nên mình vẫn suy nghĩ và tìm hiểu. Một trong những khía cạnh quan tâm của mình là tình yêu đôi lứa. Tình yêu đôi lứa trong thời chiến giúp mình cảm nhận nhiều hơn nhiều vấn đề của cuộc chiến. Dưới đây là tình yêu trong bài Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, một bài thơ và bài hát nhạc đỏ nổi tiếng. Dưới đây là chia sẻ của tác giả bài thơ – cố nhà thơ Phạm Tiến Duật – về chính bài thơ này; cùng 4 clips với 4 cặp đôi trình diễn bài hát NSND Thu Hiền & NSND Trung Đức, Phương Thảo & NSUT Đăng Dương, Anh Thơ & Việt Hoàn, và Tạ Quang Thắng & Thùy Chi. Mời các bạn cùng thưởng thức nhé. Chúc các bạn một ngày tốt lành. PTH *** ĐÔI CHI TIẾT VỀ BÀI THƠ TRƯỜNG SƠN ĐÔNG – TRƯỜNG SƠN TÂY Thứ hai – 23/12/2013 0818 VNQĐ online Bài viết này được cố nhà thơ Phạm Tiến Duật viết khi ông còn sống, với những kỉ niệm nhỏ xung quanh bài thơ nổi tiếng “Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây”.VNQĐ online xin trân trọng giới thiệu lại cùng bạn đọc Nhà thơ PHẠM TIẾN DUẬT Bài thơ Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây tôi sáng tác hồi cuối năm 1969 tại một làng nhỏ bên bờ sông Son của tỉnh Quảng Bình, làng Cổ Giang, một làng nghèo khó mà nền nếp. Cái làng ấy ở không xa nơi cổng đường 20 xe ngang dãy núi Trường Sơn. Thấm thoát đã gần ba mươi năm rồi. Tuổi đất, tuổi người dài ra cũng ối chuyện mà tuổi tác phẩm – của bất kỳ ai – dài ra cũng không ít chuyện. Từ nhiều năm nay, trong các băng nhạc Karaoke có chạy bài hát cùng tên phổ thơ tôi do nhạc sĩ Hoàng Hiệp làm nhạc. Câu thơ Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ của bài thơ ấy được băng hình đánh chữ là Cái gạt nước xua tan nỗi nhớ. “Xua tan” như thế thì còn gì là tình yêu. Băng hình không chỉ “xua tan” nỗi nhớ mà còn “xua tan” cả thơ ca nữa. Lỗi ấy của người làm băng chứ không phải của nhạc sĩ. Cũng phải nói thêm rằng những người làm băng ấy vi phạm bản quyền, phớt lờ tác giả. Câu chuyện ấy chỉ làm tôi buồn cười chứ lạ sao không thấy bực mình. Thì văn hóa tới đâu thì làm tới đó, chứ biết làm sao. Mà họ có làm văn hóa đâu, họ làm kinh tế đấy chứ. Một thời ngỡ tưởng gần mà đã hóa ra xa. Ở bài hát, Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây là một bản tình ca trong chiến tranh. Một anh, một chị yêu nhau trong xa cách. Còn ở tác phẩm thơ, yếu tố tình ca trộn lẫn với quân ca. Có tám dòng thơ nhạc sĩ không phổ. Ở khổ thứ hai từ trên xuống. Một dãy núi mà hai màu mây/Bên nắng bên mưa khí trời cũng khác/Như anh với em như Nam với Bắc/ Như đông với tây một dải rừng liền. Và ở khổ thứ hai từ dưới lên Đông sang tây không phải đường thư/Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo/ Đông Trường Sơn cô gái ba sẵn sàng xanh áo/ Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh. Như vậy, trong thơ không chỉ có hai người mà còn có hai lực lượng. Ba chữ như ở đoạn trên nói rằng đây chỉ là ví dụ mà thôi. Âm nhạc viết theo thể hát nói trữ tình đã cộng hưởng rất đẹp với thơ. Cả bài thơ, như đã nói, làm xong cuối năm 1969, nhưng hai dòng đầu tiên thì có trước đó gần hai năm. Bây giờ, nhận vật tạo hứng cho thơ đang sống ở Hà Nội, một họa sĩ đã thành danh. Hồi ấy, anh ta yêu một cô y tá ở phía đông Trường Sơn. Ngồi chung một ca-bin xe đi sang phía tây, suốt đường anh ta nhắc đến người yêu. Nỗi nhớ của anh ra lây lan sang cả tôi, sang cả người lái xe. Mãi đến khi trời mưa, cái gạt nước phía trước mặt đã giúp tôi viết hai dòng đầu tiên Anh lên xe trời đổ con mưa/Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ. Bài thơ được viết sau nhiều chặng đường vượt rừng gian nan. Cho đến nỗi, nếu chưa từng ở rừng, vượt rừng thì khó bề thông cảm hết với thơ ấy, bài ấy. Chẳng hạn như câu này Nước khe cạn, bướm bay lèn đá không phải là một câu thơ tả đẹp mà là một quan sát đáng run sợ của lính trinh sát. Nếu thấy cảnh ấy vào lúc chập chiều thì cầm chắc là đói vì không thể có nước nấu cơm. Mười cây số vuông quanh đí không thể có nguồn nước. Hay là câu này Muỗi bay rừng già cho dài tay áo, một bạn Việt kiều và một nhà thơ Pháp đã dịch là Muỗi bay, mọi người mặc áo măng tô vào thì thật buồn cười. Họ không đi lính thì trách sao được. Nhà thơ Phạm Tiến Duật thứ 2 bên phải tại Hội nghị mừng công của Bộ đội Trường Sơn mùa khô 1970-1971. Bây giờ, đọc lại nghe lại, như một người ngoài cuộc vô cảm tôi vẫn thấy trong lòng bồi hồi. Từ nhiều năm nay thật nhiều bài thơ người ta gọi là thơ tình, nhiều ca khúc người ta gọi là tình ca. Nhưng sao nghe chỉ thấy tán tỉnh, có lúc tán tỉnh đến thô lỗ. Thấy quá nhiều sự ích kỷ nhuộm vào các câu chữ. Nhớ lại thời ấy, không phải để tự khen mình và đồng đội của mình mà rưng rưng cảm động. Hình như, không yêu được số đông người thì cũng khó mà yêu lấy một người. Sự ích kỷ với thiên hạ có chứa lực phản. Không, không chỉ một tôi viết Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây mà cả con muỗi, con bướm, cái gạt nước, ngọn măng rừng và đồng đội của chúng ta cùng viết. TRƯỜNG SƠN ĐÔNG – TRƯỜNG SƠN TÂY Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn Hai đứa ở hai đầu xa thẳm ường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn ông nhớ Trường Sơn Tây Một dãy núi mà hai màu mây Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác Như anh với em, như Nam với Bắc Như ông với Tây một dải rừng liền Trường Sơn Tây anh đi, thương em Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo Muỗi bay rừng già cho dài tay áo Rau hết rồi, em có lấy măng không? Em thương anh bên ấy Tây mùa ông Nước khe cạn, bướm bay lèn đá Biết lòng anh say miền đất lạ Chắc em lo đường chắn bom thù Anh lên xe, trời đổ cơn mưa Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ Em xuống núi nắng về rực rỡ Cái nhành cây gạt mối riêng tư ông sang Tây không phải đường thư ường chuyển đạn và đường chuyển gạo ông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh Từ nơi em gửi tới nơi anh Những đoàn quân trùng trùng ra trận Như tình yêu nối lời vô tận ông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn *** Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây Nhạc Hoàng Hiệp Lời Phạm Tiến Duật Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn Hai đứa ở hai đầu xa thẳm Đường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây. Trường Sơn Tây anh đi… Thương em, thương em bên ấy mưa nhiều Con đường là gánh gạo Muỗi bay rừng già cho dài mà tay áo Hết rau rồi em có lấy măng không. Còn em thương bên Tây anh mùa Đông Nước khe cạn bướm bay i lèn đá Biết lòng anh say miền đất lạ Là chắc em lo đường chắn bom thù. Anh lên xe trời đổ cơn mưa Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ Em xuống núi nắng về rực rỡ Cái nhành cây gạt mối riêng tư. Từ bên em đưa sang bên nơi anh Những binh đoàn nối nhau ra tiền tuyến Như tình yêu nối lời vô tận Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn. NSND Thu Hiền & NSND Trung Đức – Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây Phương Thảo & NSUT Đăng Dương – Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây Anh Thơ & Việt Hoàn – Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây Tạ Quang Thắng & Thùy Chi – Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây Giai Điệu Tự Hào
Cùng mắc võng trên rừng Trường SơnHai đứa ở hai đầu xa thẳmường ra trận mùa này đẹp lắmTrường Sơn ông nhớ Trường Sơn dãy núi mà hai màu mâyNơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khácNhư anh với em, như Nam với BắcNhư ông với Tây một dải rừng Sơn Tây anh đi, thương emBên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạoMuỗi bay rừng già cho dài tay áoRau hết rồi, em có lấy măng thương anh bên Tây mùa đôngNước khe cạn bướm bay lèn đáBiết lòng anh say miền đất lạChắc em lo đường chắn bom thùAnh lên xe, trời đổ cơn mưaCái gạt nước xua tan nỗi nhớEm xuống núi nắng về rực rỡCái nhành cây gạt nỗi riêng sang Tây không phải đường nhưường chuyển đạn và đường chuyển gạoông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áoTây Trường Sơn bộ đội áo màu nơi em gửi đến nơi anhNhững đoàn quân, trùng trùng ra trậnNhư tình yêu nối lời vô tậnông Trường Sơn, nối Tây Trường Sơn. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc thành nhạc phẩm cùng tên. Dưới đây là phiên bản do Thu Hiền - Trung Đức trình bày.
LTS Bài viết này được cố Nhà thơ Phạm Tiến Duật viết khi ông còn sống, với những kỷ niệm nhỏ xung quanh bài thơ nổi tiếng “Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây”. Xin trân trọng giới thiệu lại cùng bạn đọc. Bài thơ Trường Sơn ông - Trường Sơn Tây tôi sáng tác hồi cuối năm 1969 tại một làng nhỏ bên bờ sông Son của tỉnh Quảng Bình, làng Cổ Giang, một làng nghèo khó mà nền nếp. Cái làng ấy ở không xa nơi cổng đường 20 xe ngang dãy núi Trường Sơn. Thấm thoát đã gần ba mươi năm rồi. Tuổi đất, tuổi người dài ra cũng ối chuyện mà tuổi tác phẩm - của bất kỳ ai - dài ra cũng không ít chuyện. Nhà thơ Phạm Tiến Duật thứ hai bên phải tại Hội nghị mừng công của Bộ đội Trường Sơn mùa khô 1970-1971. Ảnh VNEXPRESS Từ nhiều năm nay, trong các băng nhạc karaoke có chạy bài hát cùng tên phổ thơ tôi do Nhạc sĩ Hoàng Hiệp làm nhạc. Câu thơ “Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ” của bài thơ ấy được băng hình đánh chữ là “Cái gạt nước xua tan nỗi nhớ”. “Xua tan” như thế thì còn gì là tình yêu. Băng hình không chỉ “xua tan” nỗi nhớ mà còn “xua tan” cả thơ ca nữa. Lỗi ấy của người làm băng chứ không phải của nhạc sĩ. Cũng phải nói thêm rằng, những người làm băng ấy vi phạm bản quyền, phớt lờ tác giả. Câu chuyện ấy chỉ làm tôi buồn cười chứ lạ sao không thấy bực mình. Thì văn hoá tới đâu thì làm tới đó, chứ biết làm sao. Mà họ có làm văn hoá đâu, họ làm kinh tế đấy chứ. Một thời ngỡ tưởng gần mà đã hoá ra xa. Ở bài hát, Trường Sơn ông - Trường Sơn Tây là một bản tình ca trong chiến tranh. Một anh, một chị yêu nhau trong xa cách. Còn ở tác phẩm thơ, yếu tố tình ca trộn lẫn với quân ca. Có tám dòng thơ nhạc sĩ không phổ. Ở khổ thứ hai từ trên xuống “Một dãy núi mà hai màu mây Bên nắng bên mưa khí trời cũng khác Như anh với em như Nam với Bắc Như ông với Tây một dải rừng liền”. Và ở khổ thứ hai từ dưới lên “ông sang Tây không phải đường thư ường chuyển đạn và đường chuyển gạo ông Trường Sơn cô gái ba sẵn sàng xanh áo Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh”. Như vậy, trong thơ không chỉ có hai người mà còn có hai “lực lượng”. Ba chữ như ở đoạn trên nói rằng đây chỉ là ví dụ mà thôi. Âm nhạc viết theo thể hát nói trữ tình đã cộng hưởng rất đẹp với thơ. Cả bài thơ, như đã nói, làm xong cuối năm 1969, nhưng hai dòng đầu tiên thì có trước đó gần hai năm. Bây giờ, nhân vật tạo hứng cho thơ đang sống ở Hà Nội, một hoạ sĩ đã thành danh. Hồi ấy, anh ta yêu một cô y tá ở phía ông Trường Sơn. Ngồi chung một ca-bin xe đi sang phía Tây, suốt đường anh ta nhắc đến người yêu. Nỗi nhớ của anh ra lây lan sang cả tôi, sang cả người lái xe. Mãi đến khi trời mưa, cái gạt nước phía trước mặt đã giúp tôi viết hai dòng đầu tiên “Anh lên xe trời đổ cơn mưa Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ” Bài thơ được viết sau nhiều chặng đường vượt rừng gian nan. Cho đến nỗi, nếu chưa từng ở rừng, vượt rừng thì khó bề thông cảm hết với thơ ấy, bài ấy. Chẳng hạn như câu này “Nước khe cạn, bướm bay lèn đá” không phải là một câu thơ tả đẹp mà là một quan sát đáng run sợ của lính trinh sát. Nếu thấy cảnh ấy vào lúc chập chiều thì cầm chắc là đói vì không thể có nước nấu cơm. Mười cây số vuông quanh đi không thể có nguồn nước. Hay là câu này “Muỗi bay rừng già cho dài tay áo”, một bạn Việt kiều và một nhà thơ Pháp đã dịch là “Muỗi bay, mọi người mặc áo măng tô vào” thì thật buồn cười. Họ không đi lính thì trách sao được. Bây giờ, đọc lại, nghe lại, như một người ngoài cuộc vô cảm tôi vẫn thấy trong lòng bồi hồi. Từ nhiều năm nay, thật nhiều bài thơ người ta gọi là thơ tình, nhiều ca khúc người ta gọi là tình ca, nhưng sao nghe chỉ thấy tán tỉnh, có lúc tán tỉnh đến thô lỗ. Thấy quá nhiều sự ích kỷ nhuộm vào các câu chữ. Nhớ lại thời ấy, không phải để tự khen mình và đồng đội của mình mà rưng rưng cảm động. Hình như, không yêu được số đông người thì cũng khó mà yêu lấy một người. Sự ích kỷ với thiên hạ có chứa lực phản. Không, không chỉ một tôi viết Trường Sơn ông - Trường Sơn Tây mà cả con muỗi, con bướm, cái gạt nước, ngọn măng rừng và đồng đội của chúng ta cùng viết./. Nhà thơ Phạm Tiến Duật
Phạm Tiến Duật là Nhà thơ cách mạng của nền Văn học hiện đại Việt Nam. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964 nhưng sau đó không tiếp tục với nghề dạy học mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong thời gian này, Phạm Tiến Duật sáng tác rất nhiều tác phẩm và để lại nhiều bài thơ nổi tiếng như Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Vầng trăng và những quầng lửa, Gửi em cô thanh niên xung phong... Thơ của Phạm Tiến Duật là tiếng nói ca ngợi tình yêu lứa đôi, tình đồng đội, tình yêu quê hương đất nước với giọng điệu sôi nổi, lạc quan và có chút gì đó tinh nghịch nhưng cũng rất sâu sắc. Bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây của nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác cuối năm 1969, tại tỉnh Quảng Bình. Ngay khi mới ra đời, bài thơ đã luôn có mặt trong túi áo của mỗi người lính trên tuyến lửa. Khi bài thơ được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc thì chất thơ, chất nhạc quyện chặt với nhau, nâng cánh cho nhau vang vọng khắp các chiến trường, thôi thúc hàng triệu trái tim Việt Nam xông pha nơi tiền tuyến, giết giặc lập công, giải phóng đất nước. Mở đầu bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây là lời tự tình của đôi lứa yêu nhau nhưng phải chịu sự ngăn cách vời vợi của dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, của thời chiến chinh ly loạn và khốc liệt “Cùng mắc võng trên rừng Trường SơnHai đứa ở hai đầu xa thẳmĐường ra trận mùa này đẹp lắmTrường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây” Bằng cấu trúc dễ nhớ, dễ thuộc, bình dị, mang âm hưởng đời thường và đậm màu chất lính, tính trữ tình quyện chặt với tính hùng ca. Nó đã truyền lửa vào trái tim của mỗi người ra trận. Những vần thơ ấy đã thành công về nghệ thuật, cảm xúc đong đầy. Tuy vậy, cái hay hơn có lẽ là nó đã nói lên được cảm xúc lớn của thời đại, của cả một thế hệ trẻ, của cả dân tộc thời ấy. Mặc dù đã hoàn thành khóa học ngành Sư phạm. Thay vì làm một thầy giáo dạy học nhưng Phạm Tiến Duật lại xin vào quân ngũ với mong ước tha thiết được đi vào chiến trận. Khát vọng đi Bộ đội của Nhà thơ cách mạng này được chấp nhận khi ông trúng tuyển vào Tiểu đoàn Pháo cao xạ Tây Bắc. Trong tâm hồn của người đàn ông đích thực đầy lãng tử ấy đã có sẵn ham muốn được dịch chuyển“Trường Sơn Tây anh đi, thương emBên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạoMuỗi bay rừng già cho dài tay áoHết rau rồi, em có lấy măng không” Phạm Tiến Duật hăm hở xin chuyển về Cục Vận tải quân sự thuộc Tổng cục Hậu cần chỉ vì muốn được đắm mình trong cuộc chiến, được tận mắt chứng kiến và nếm trải sự tàn khốc của chiến tranh. Niềm đam mê tự do sáng tạo, cống hiến cho dân tộc cháy bỏng đã làm cho dấu chân Phạm Tiến Duật thật sự cất bước nhẹ nhõm vào chiến trường đầy cam go. Yêu nước là thế song nhà thơ vẫn giữ cho mình một khoảnh khắc riêng tư. Đó là nỗi nhớ về em, người bạn gái đang hành quân bên sườn Đông dãy Trường Sơn. Trong con người Phạm Tiến Duật, tình yêu nam nữ và tình yêu đất nước hòa quyện vào nhau. Nó trở thành động lực, hành trang nâng bước chân người chiến sĩ. Có thể nói, cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ và con đường Trường Sơn huyền thoại đã sinh ra một Phạm Tiến Duật thứ hai nhưng lại là con người duy nhất có sức mạnh thống soái và định hình một tính cách, một số phận Phạm Tiến Duật. Chính cuộc sống thời khói lửa đau thương, mất mát đã thắp lên ngọn lửa trong trái tim người sáng tác. Và không chỉ riêng mình nhà thơ viết“Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” mà cả con muỗi, con bướm, cái gạt nước, ngọn măng rừng và đồng chí, đồng đội cùng viết chung với nhà thơ Phạm Tiến Duật, tạo nên một bài thơ vừa hài hòa, vừa đẹp đẽ, vừa có giá trị. Gắn bó với núi rừng Trường Sơn, với những người lính ngày đêm chiến đấu với kẻ thù, đối mặt với bom đạn, chết chóc, Phạm Tiến Duật luôn có một tinh thần lạc quan. Ông nhìn mọi thứ kể cả những thực tế nghiệt ngã, những góc khuất và những bi kịch của cuộc chiến qua một lăng kính hồn nhiên, tếu táo đến lạ thường “Đông sang Tây không phải đường nhưĐường chuyển đạn và đường chuyển gạoĐông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áoTây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh” Chiếc xe như một chiến hữu dũng cảm, như một người bạn thân, chung thủy sống chết đã rong ruổi cùng Phạm Tiến Duật trên những dặm dài đường rừng Trường Sơn. Chiếc xe chở Phạm Tiến Duật đi tác chiến trên những trận địa vừa dứt tiếng súng hay nằm vắt vẻo cùng với chủ nhân trên những chiếc xe tải chở vũ khí đạn dược vào chiến trường “Từ nơi em đưa đến nơi anhNhững binh đoàn nối nhau ra tiền tuyếnNhư tình yêu nối lời vô tậnĐông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn” Sự yêu đời, luôn hướng về ánh sáng, niềm tin chiến thắng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc họa bằng một tượng đài anh dũng, bất khuất. Từ bên em và bên anh xa cách thăm thẳm nhưng rồi lại được nối kết bằng một đoàn hùng binh nối tiếp nhau ra trận địa trong một bầu không khí sục sôi, oai hùng, lẫm liệt. Tình yêu giữa anh với em và tình yêu nước Việt như cuồn cuộn, hóa thành mạch sống dâng trào trong tâm tư người lính Trường Sơn. Cho đến bây giờ, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây vẫn là một bài thơ hay, có sức sống lâu bền trong lòng độc giả. Đối với những người chiến sĩ Trường Sơn từng chiến đấu và hy sinh một thời thì coi đây là bài thơ bất tử, là nghĩa tình đồng đội và niềm tự hào mỗi khi họ cùng nhau nhắc về Trường Sơn hùng vĩ, anh hùng. Bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây là một đúc kết từ thực tiển của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Bài thơ được sáng tác trên cảm hứng lịch sử, được ngân lên bằng tiếng lòng, tình cảm đằm thắm, sức sống mãnh liệt và niềm tin tất thắng trong tâm hồn của những người lính Trường Sơn thuở tham khảo nhé
Mặc Lâm, phóng viên đài RFA Chương trình văn học nghệ thuật tuần này Mặc Lâm mời quý vị nghe lại một bài thơ mà những ai từng sống trong thời gian sau năm 1975 tại Việt Nam đều từng được nghe qua đó là bài "Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây" của nhà thơ Phạm Tiến Duật được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ thành ca khúc. Bấm vào đây để nghe tiết mục này Download story audio Nhà thơ Phạm Tiến Duật. File photo Phạm Tiến Duật sinh năm 1941 tại Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo. Trong thời gian này, ông sống và đi bộ đội công binh chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn. Đây cũng là thời gian ông sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng. Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam với tư cách là phó trưởng ban đối ngoại. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001. Ngày 4 tháng 12 năm 2007, nhà thơ Phạm Tiến Duật mất tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vì căn bệnh ung thư phổi. Bài thơ Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây của nhà thơ Phạm Tiến Duật đến với công chúng miền Bắc khi những đợt bom trải thảm bắt đầu gây thương vong cho một số lớn bộ đội miền Bắc trong giai đoạn chiến tranh nổ ra ác liệt trên đường Trường Sơn. Chiến tranh dù dưới bất cứ danh nghĩa nào cũng bộc lộ tính chất hủy diệt của nó. Trong thời gian xảy ra cuộc chiến, tất cả những hoạt động văn học nghệ thuật của miền bắc được tập trung tuyên truyền cho mục đích cuối cùng là chiến thắng. Tất cả những tác phẩm ra lò đều có chung một khuôn mặt, một tính cách và một mục tiêu đó là hủy diệt tận lực kẻ thù bất kể bằng phương tiện nào. Người dân miền bắc sau bao năm sống trong những điệp khúc mạnh mẽ kêu gọi giết chóc và tàn phá bỗng một hôm bừng dậy vào lúc 5 giờ sáng khi lần đầu tiên sau nhiều năm đài phát thanh Hà Nội phát đi nhạc phẩm này. Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn Hai đứa ở hai đầu xa thẳm ường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn ông nhớ Trường Sơn Tây. Một dãy núi mà hai màu mây Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác Như anh với em, như Nam với Bắc Như ông với Tây một dải rừng liền. Trường Sơn tây anh đi, thương em Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo Muỗi bay rừng già cho dài tay áo Rau hết rồi, em có lấy măng không. Em thương anh bên tây mùa đông Bướm khe cạn nước bay lèn đá Biết lòng Anh say miền đất lạ Chắc em lo đường chắn bom thù Anh lên xe, trời đổ cơn mưa Cái gạt nước xua tan nỗi nhớ Em xuống núi nắng về rực rỡ Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư. ông sang tây không phải đường như ường chuyển đạn và đường chuyển gạo ông Trường Sơn, cô gái "ba sẵn sàng" xanh áo Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh. Từ nơi em gửi đến nơi anh Những đoàn quân, trùng trùng ra trận Như tình yêu nối lời vô tận ông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn. Điều mới lạ Như một giòng suối mát len lỏi trong từng ngóc ngách của tâm hồn, người ta gọi nhau í ới để chia sẻ chút hạnh phúc hiếm hoi khi bản nhạc lạ lùng có âm hưởng mạnh mẽ của tình yêu mà từ lâu họ không cảm nhận được trong nhiều tác phẩm thi ca. Nhà thơ Nguyễn Khắc Phục kể lại những kỷ niệm của mình trong thời gian xuất hiện bài thơ. Miền bắc đã có chiến lược lâu dài cho giới văn nghệ sỹ tham gia cuộc chiến bằng tác phẩm của mình. Và cũng từ đó, những ngòi bút ưu tú trước chiến tranh cùng nhau chịu khó xếp hàng sau lưng Tố Hữu như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Hoàng Tích Chỉ, Nguyễn Minh Châu...để vừa ngợi ca lãnh tụ vừa cổ vũ chiến tranh và thi nhau dựng lên những nhân vật anh hùng không có thật hay có nhưng chỉ thật phân nửa. Phạm Tiến Duật lúc ấy đứng riêng hẳn một mình. Ông vừa làm thơ, vừa lái xe vừa trêu chọc các o dân quân mà không hề lên gân như các đồng nghiệp của ông. Tiếng thơ của Phạm Tiến Duật bàng bạc tình người, tình đồng đội và trên hết là tình yêu trai gái. Duật đem hình ảnh của hai người yêu nhau và quan tâm đến nhau qua những chi tiết tưởng chừng như vụn vặt nhưng thấm đẫm yêu đương, vốn là thứ mà trong cẩm nang viết lách của các văn nhân thi sĩ miền bắc trong thời gian chiến tranh thường tỏ ra dị ứng. Những chi tiết mà các nhà thơ cao đạo không thích vương vấn tới vì sợ phê bình kiểm điểm là ủy mị và tha hóa lại xuất hiện đầy trong bài thơ Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây. Phạm Tiến Duật đã khơi dậy những thèm muốn rất người và những thèm muốn trong sáng đó nằm ẩn phía sau những ngập ngừng nóng bỏng. Đông và Tây dưới ngòi bút của nhà thơ không còn ngàn trùng nữa mà được kết nối bằng những nhắn gửi có tính cách thiết tha lo lắng cho nhau giữa trăm ngàn hiểm nguy bề bộn. Những hình ảnh đời thường này được nhà thơ phả vào những cảm xúc rất thật của mình và biến chúng thành những tuyên ngôn, tuyên ngôn của những người yêu nhau, cho dù những người này đang gùi gạo, ăn măng, đào đường nhưng vẫn tiến lên bằng hình ảnh của người yêu đang đồng hành phía trước. Trong suốt cả bài thơ người ta không thấy một từ ngữ nào ngợi ca hay vinh danh chiến tranh. Câu duy nhất trong toàn bài thơ có thể hiểu cách nào cũng được là câu "chắc em lo đường chắn bom thù.." Tuy có hình ảnh chiến tranh qua từ "bom" nhưng hình ảnh này bị tối thiểu hóa đến độ người nghe cứ tưởng quả bom nằm tận đâu đâu chứ không dính gì tới người trong cuộc cả. Hiệu ứng từ ngữ trong câu ường ra trận mùa này đẹp lắm, Trường Sơn ông nhớ Trường Sơn Tây mở ra thật nhanh hình ảnh của cả cánh rừng vĩ đại kéo dài từ Đông sang Tây bỗng nhiên thấy gần hẳn lại chỉ qua một chữ "nhớ" nằm chính giữa câu thơ. Ngôn ngữ thi ca đã phô diễn sức mạnh của nó trong trường hợp này. Phạm Tiến Duật vạch mây trường sơn một cách hồn nhiên để gọi người yêu ra từ một nơi nào xa lắm Một dãy núi mà hai màu mây Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác Như anh với em, như Nam với Bắc Như ông với Tây một dải rừng liền. Và rồi có lẽ bốn câu gây chấn động người nghe xuất hiện như một tiếng gõ khẽ khàng nhưng nằm lại thật lâu trong tâm trí Anh lên xe, trời đổ cơn mưa Cái gạt nước xua tan nỗi nhớ Em xuống núi nắng về rực rỡ Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư. Cái nhành cây vô tư đã gạt đi chút âu yếm nhớ nhung của người con gái phía bên kia núi lại được sắc màu rực rỡ của nắng Trường Sơn đồng tình hứa hẹn một cuộc tương phùng tưởng chừng gần lắm. Anh lên xe và em xuống núi có gì phân cách hay không mà sao trong nhạc điệu của bốn câu thơ nghe chừng tràn đầy hạnh phúc? Phạm Tiến Duật trong những năm gần tàn cuộc chiến bỗng nhiên trầm tư hẳn qua nhiều câu thơ ảm đạm mà nếu không may mắn ông khó thoát qua được cuộc thanh trừng của những cây viết phê bình văn nghệ trong đảng. Bài thơ ngắn ngủi mang tên Vòng Trắng xuất hiện trên tạp chí Thanh Niên số 1 năm 1974 có những câu như sau Vòng Trắng Khói bom lên trời thành một cái vòng đen trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng tôi với bạn tôi đi trong yên lặng cái im lặng bình thường đêm sau chiến tranh Có mất mát nào lớn bằng cái chết khăn tang vòng tròn như một số không nhưng bạn ơi ở bên trong vòng trắng là cái đầu bốc lửa ở bên trong Theo nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc thì sau khi bài thơ xuất hiện, tạp chí Học Tập số 9 năm 1974 phê phán gay gắt rằng "Giữa lúc cần nói to lên niềm sung sướng tự hào về cái được vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thì nhà thơ lại chỉ thấy cái mất, chỉ thấy tang tóc đau thương và than thở..." Phạm Tiến Duật hô to lên một điều mà trong suốt cuộc kháng chiến không một ai nói tới, cho dù đó là một sự thật vĩnh hằng Có mất mát nào lớn bằng cái chết? Bây giờ thì nhà thơ đã cam chịu mất mát bằng chính cái tan rã hư không của thân xác. Dầu sao thì nhà thơ đã trải nghiệm qua nhiều biến động của cuộc sống nhưng ông luôn yên ả trong tâm hồn qua những cái nhìn cuộc đời đầy nhân bản và nhất là hiệu ứng với câu thơ cuối cùng của nhà thơ khăn tang vòng tròn như một số không © 2007 Radio Free Asia Các tin, bài liên quan Cuốn "Chuyện Tướng Độ" do Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân ấn hành Du Tử Lê – 50 Năm Trên Ngọn Tình Sầu Blog và Youtube, những web cá nhân có khuynh hướng thông tin như một trang báo tại Việt Nam Blog, nhu cầu mới của người sáng tác chuyên và không chuyên ngày nay ở Việt Nam Tác phẩm “Cánh đồng bất tận” được chuyển ngữ và phát hành tại Hàn Quốc Nhà báo Phan Khôi, người mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới Nói chuyện với nhà báo Võ đắc Danh phần 2 Nói chuyện với nhà báo Võ đắc Danh phần 1 Nhà văn Minh Ngọc và những điều chưa kể
bài thơ trường sơn đông trường sơn tây